Sự thiếu vắng nền tảng nghiên cứu khoa học xã hội trong chính sách giáo dục ở Việt nam: Ví dụ từ Dự thảo Quy Định Tiêu Chuẩn Giáo Sư, Phó Giáo Sư Việt nam Ngày đăng 29/07/2017, 14:12

[Ảnh từ Google]
Trong quá trình phát triển và thực hiện chính sách về giáo dục tại Mỹ, hầu hết các đề xuất đề án và chính sách phải dựa trên nền tảng của nghiên cứu khoa học độc lập mà thường được gọi là “cơ sở khoa học nghiên cứu” (research – based evidence hay evidence-base), do nhiều trường đại học hay viện nghiên cứu độc lập thực hiện và tham gia phản biện. Mặc dù Mỹ có hơn 5000 trường đại học được kiểm định, chỉ có khoảng 200 trường có hoạt động nghiên cứu nghiêm túc và những giáo sư hàng đầu trong từng ngành/lĩnh vực cụ thể. Tên tuổi của các trường như Harvard, Stanford, Yale, University of Colorado, hay Michigan State University khá nổi tiếng không chỉ vì lịch sử của họ, mà vì những dự án nghiên cứu về chính sách hay phản biện chính sách giáo dục do Chính Phủ hoặc Quốc Hội đặt hàng.
Nhìn lại năm 2016 ở Việt nam, cứ vài tháng tôi lại thấy những đề xuất hay dự án cải cách giáo dục làm dậy sóng dư luận và gây rất nhiều tranh luận cho học sinh, phụ huynh, giáo viên và nhà trường, trong khi những dẫn chứng cơ sở khoa học nghiên cứu cho các đề xuất này lại hoàn toàn thiếu vắng hoặc không được công bố rộng rãi trên phương tiện truyền thông và website của Bộ Giáo dục và Đào tạo (“Bộ GD-ĐT”).
Vậy, câu hỏi là liệu khi làm chính sách giáo dục, dù là dưới hình thức văn bản quy phạm hay đề án cải cách hàng năm, Bộ GD-ĐT đã có những nghiên cứu khoa học độc lập nhằm chứng minh tính hữu dụng của những đề xuất cải cách của mình hay chưa? Xin được điểm lại vài nét chính cho dự thảo đào tạo tiến sỹ và chuẩn công nhận giáo sư gần đây của Bộ GD-ĐT, nhằm để chia xẻ một số suy nghĩ về quy trình và sự thiếu vắng cơ sở nghiên cứu cơ bản đã “dẫn” chúng ta đi làm đề án và văn bản pháp quy cho giáo dục đến đâu.
Dự thảo Quy Định Tiêu Chuẩn Giáo Sư, Phó Giáo Sư Việt nam
Vào cuối năm 2016, trong hội nghị bàn về quy định đào tạo tiến sỹ [1], Bộ GD-ĐT đưa ra phương án “muốn bảo vệ tiến sỹ, phải có công bố quốc tế”. Lập luận của yêu cầu này là để nâng cao chất lượng tiến sỹ, hội nhập với thế giới, trước khi bảo vệ luận án tiến sỹ, nghiên cứu sinh phải có công trình khoa học, được phản biện và đăng tải quốc tế. Theo đó, tiêu chuẩn của người hướng dẫn làm nghiên cứu cũng cần được nâng tiêu chuẩn, cũng cần có công bố quốc tế [1].
Chưa bàn đến việc công bố trước hay sau bảo vệ tiến sỹ là hợp lý, trong toàn bộ nội dung hội nghị bàn về vấn đề này, các giáo sư và Hội Đồng Chức danh Giáo sư Nhà Nước không đưa ra hay trích dẫn được bất kỳ nghiên cứu thực tế nào về đào tạo tiến sỹ và chất lượng, trong bối cảnh Việt nam đã có 24.000 tiến sỹ được công nhận trong hơn 20 năm qua[2]. Giả sử chúng ta chưa có nghiên cứu ở Việt nam, việc “vay mượn” nghiên cứu đã có ở một số nước khác làm so sánh đối chứng có lẽ cũng có thể dùng được trong trường hợp này, nhưng tiếc là cũng không thấy có ai đề cập đến một nghiên cứu khoa học cụ thể nào về vấn đề đào tạo tiến sỹ ở nước ngoài cả. Chúng ta đọc được trên báo về dự thảo đào tạo tiến sỹ, một chức danh cao nhất trong học thuật nghiên cứu được cả thế giới công nhận, nhưng lại không thấy đâu những nghiên cứu khoa học để chứng minh việc công bố quốc tế trước khi bảo vệ là cần thiết, nhằm thuyết phục cả xã hội, tất cả người học tiến sỹ là điều này là đúng và phù hợp với thực tiễn thế giới.
Sau một thời gian, đầu năm 2017, chủ đề về công bố quốc tế trước khi bảo vệ luận án tiến sỹ được chuyển sang chủ đề mới để bàn là ‘dự thảo quy định tiêu chuẩn giáo sư, phó gió sư Việt nam” [3], và có lẽ, theo tôi đọc hiểu trên Vietnamnet, yêu cầu về công bố quốc tế được chuyển sang cho việc phong hàm phó giáo sư hay giáo sư, chứ không phải cấp học tiến sỹ nữa.
Theo GS. Nguyễn Hữu Đức (ĐH Quốc gia Hà nội), đây là dự thảo quy định ở mức “tối thiểu” nhằm “buộc” Việt nam phải phát triển năng lực nghiên cứu và công bố quốc tế, và theo ông Đức, “nhóm soạn thảo chắc cũng đã có thống kê dựa trên số liệu công nhận GS, PGS những năm gần đây và tiêu chí đó cũng mới nằm ở đỉnh phổ thống kê mà thôi” [3]. Trong toàn văn chia xẻ của GS. Đức về quy định công bố quốc tế và công nhận giáo sư sửa đổi lần này, cá nhân tôi, là nghiên cứu sinh về giáo dục và quốc tế hóa ở Mỹ, hoàn toàn hiểu những nỗi khó khăn của Việt nam khi đưa ra đưa vào những quy định về nghiên cứu, công bố quốc tế cũng như mong muốn được nâng cao chất lượng nghiên cứu và công bố của Việt nam trong giai đoạn “toàn cầu hóa” hiện nay.
Về việc công bố quốc tế, dù là ở cấp độ bảo vệ luận án tiến sỹ hay ở công nhận giáo sư, cá nhân tôi mong có những khảo sát thực tiễn của Việt nam, những nghiên cứu nghiêm túc của thế giới về nghiên cứu khoa học và công bố để minh chứng. Nếu không có những nghiên cứu thuyết phục, các đề xuất công bố quốc tế đều sẽ không có cơ sở khoa học để thực hiện, vì chúng ta không biết thế nào là công bố quốc tế, chuẩn quốc tế có ứng dụng cao cho Việt nam hay không, năng lực nghiên cứu nội địa đã đủ đáp ứng hay không, vân vân, trong khi chúng ta đã phải đối mặt với thực tế sau của Việt nam:
-
Theo Hội đồng Chức danh Giáo sư Nhà nước, chúng ta có chưa tới 40% tân giáo sư và phó giáo sư năm 2016 có công bố quốc tế. Riêng ngành cơ khí và vật lý có 100% tân tiến sỹ có công bố quốc tế [4]. Những con số này chưa chỉ ra cụ thể là có bao nhiêu công bố quốc tế được thực hiện dưới hình thức “co-authors” (đồng tác giả) với các đối tác nghiên cứu nước ngoài;
-
Trong các đề án và nghiên cứu khoa học công nghệ trọng điểm có ngân sách của nhà nước, được biết mỗi bài báo công bố quốc tế đã tốn khoảng 10 tỷ đồng Việt nam (gần $48.000) [5]. Khá đắt đỏ so với cả chi phí đầu tư nghiên cứu khoa học cơ bản của Mỹ, và nhận được một kết luận “kết quả của các chương trình nhìn chung chưa tạo được ấn tượng sâu sắc”;
-
Hạn chế ngoại ngữ, thiếu năng lực và kỹ năng làm nghiên cứu của nghiên cứu sinh cùng với năng lực hướng dẫn nghiên cứu của người hướng dẫn là ba nguyên nhân cơ bản (đã được chỉ ra) làm cho việc đào tạo tiến sỹ của Việt nam rất “thấp” [6], và không đi cùng với bất kỳ chuẩn nào của khu vực hay thế giới.
Tôi muốn chia xẻ một số thực tiễn của Mỹ trong khi học và làm nghiên cứu sinh chuyên ngành quốc tế giáo dục, để chúng ta có thêm thông tin tham khảo.
-
Ở Mỹ, giáo sư phải thực hiện tối thiểu 3 nhóm công việc : giảng dạy – hướng dẫn nghiên cứu và các hoạt động công tác phát triển cộng đồng học thuật. Tùy theo từng định hướng của trường, sẽ có giáo sư dạy nhiều hơn, nhưng sẽ có trường yêu cầu làm nghiên cứu và công bố nhiều hơn (Northwestern University và hầu hết các trường nghiên cứu Top 60 của Mỹ đổ lại). Nghiên cứu của Brookings và Northwestern đã chỉ ra, có thể giáo sư dạy rất tốt, nhưng nghiên cứu lại dở hoặc ngược lại [7], và điều này không chỉ phụ thuộc vào giáo sư, mà còn phụ thuộc vào ngân sách nghiên cứu, môi trường nghiên cứu và năng lực nghiên cứu. Ở Việt nam, tôi được biết là chúng ta có dự án phân tầng đại học để xác định ai tập trung làm gì, vì không thể ai cũng dạy và ai cũng làm nghiên cứu. Hay mặc dù nghiên cứu khoa học có rất nhiều tiền, 10 tỷ đồng/1 bài công bố quốc tế, nhưng hiệu quả ứng dụng không có, tính khoa học sáng tạo không cao, thì hỏi rằng công bố quốc tế cũng có ích gì?
-
Do chúng ta không có quy định cụ thể về công bố quốc tế là thế nào, sẽ rất dễ gây ra nhiều “lộn xộn” sau này. Lấy ví dụ như ở Mỹ, giáo sư trong lĩnh vực giáo dục không cần có công bố quốc tế, mà tự bản thân giáo sư, muốn có uy tín trong chuyên ngành hoặc liên ngành tại Mỹ, họ phải có nghiên cứu, phải lấy được funding (tài trợ nghiên cứu), giảng dạy và có dự án hợp tác quốc tế thì mới có uy tín trong lĩnh vực mình nghiên cứu hoặc giảng dạy. Hơn thế nữa, cũng cần nói thêm là trong mảng nghiên cứu khoa học xã hội, Mỹ công nhận rất nhiều phương pháp nghiên cứu xã hội mà hiện ở Việt nam chưa phổ biến. Vậy, sẽ có chuyện xảy ra là nghiên cứu theo phương pháp nước ngoài công nhận mà về Việt nam lại không được công nhận do chưa có dạy phương pháp nghiên cứu khoa học xã hội này ở Việt nam. Đây là thực tế tôi đã gặp vào tháng 12/2016, khi trao đổi với một cán bộ của một đại học Việt nam, về nghiên cứu đánh giá đại học STEM của Việt nam do VEF thực hiện cùng các giáo sư Mỹ, qua phương pháp phỏng vấn và khảo sát trực tiếp giảng viên và học sinh, tiếc là, theo quan điểm của cán bộ này, phương pháp nghiên cứu như vậy không được đánh giá cao!
-
Năng lực giáo sư hướng dẫn vô cùng quan trọng, do bởi nếu nghiên cứu sinh không lựa chọn được đúng thầy cho đúng ngành mình nghiên cứu, khả năng bảo vệ thành công rất thấp. Việc có 2 thầy hướng dẫn có vẻ hữu ích, và thậm chí thú vị hơn là có người hướng dẫn bên ngoài trong hội đồng chấm luận án tiến sỹ. Xin thưa, sẽ không phải là hữu ích lắm đâu, do bởi hầu hết các nghiên cứu sinh đều kêu “trời” về tính “chính trị” giữa những người hướng dẫn trong hội đồng [8], nếu họ không lựa chọn được những người cùng “cạ”. Ở Mỹ thì không có kiểu chạy tiền, nhưng phải “có quan hệ tốt” với tất cả đã làm hao mòn khá nhiều tâm trí của nghiên cứu sinh cho luận án được bảo vệ.
Từ những thực tế trên, tôi thiết nghĩ quy định nào cũng sẽ chỉ là quy định “chết”, dù ở Anh, Mỹ hay Việt nam, nếu chúng ta không có được những người đam mê nghiên cứu thực sự, không tạo dựng được môi trường khuyến khích nghiên cứu vì lợi ích của Việt nam. Hãy nhìn thực tiễn các nước đã phát triển về khoa học, họ đã có câu “Công bố hay là Chết” [9] trong giới học thuật để giễu cợt những “giả tạo” trong nghiên cứu, vì có thể có công bố, mà không có chất lượng thì cũng “chết” thôi!
Vậy, quay trở lại với công bố quốc tế ở Việt nam cho đào tạo tiến sỹ hay công nhận giáo sư, theo tôi, trước khi quyết định theo đường hướng nào, hãy làm nghiên cứu! Hãy chứng minh được qua nghiên cứu thực tiễn của Việt nam và dẫn chứng từ thế giới về năng lực của các giáo sư hiện tại đủ tốt để hướng dẫn nghiên cứu sinh làm nghiên cứu và công bố quốc tế, vì thường là “sinh cha rồi mới sinh con” chứ nhỉ?
[Bài viết thể hiện quan điểm cá nhân, và không có bất kỳ lợi ích liên đới nào khi viết bài]
Tài liệu tham khảo:
[1] http://vietnamnet.vn/vn/giao-duc/khoa-hoc/muon-bao-ve-tien-si-phai-co-cong-bo-khoa-hoc-quoc-te-339288.html
[2] http://vnexpress.net/tin-tuc/giao-duc/viet-nam-co-hon-24-000-tien-si-3393238.html
[3] http://vietnamnet.vn/vn/giao-duc/du-thao-moi-ve-quy-dinh-tieu-chuan-giao-su-pho-giao-su-khong-doi-moi-se-tu-dao-thai-354179.html; http://vietnamnet.vn/vn/giao-duc/khoa-hoc/phai-co-cong-bo-quoc-te-moi-duoc-phong-giao-su-pho-giao-su-353462.html
[4] http://vietnamnet.vn/vn/giao-duc/khoa-hoc/chua-toi-40-gs-pgs-nam-2016-co-cong-bo-khoa-hoc-quoc-te-338106.html
[5] http://vietnamnet.vn/vn/khoa-hoc/14-chi-phi-nghien-cuu-khoa-hoc-la-cong-tac-phi-hoi-nghi-hoi-thao-325943.html
[6] http://dvhnn.org.vn/mobi/bai_vietmb_Mot-so-y-kien-ve-dao-tao-bac-hoc-Tien-si_27_9350.html;
[7] https://www.brookings.edu/research/are-great-teachers-poor-scholars/
[8] https://www.theguardian.com/higher-education-network/2015/dec/11/bad-phd-supervisors-can-ruin-research-so-why-arent-they-accountable
[9] https://www.linkedin.com/pulse/publish-perish-thinking-phd-education-vienam-huong-nguyen?trk=mp-reader-card
Nguyễn Thị Lan Hương – NewAsia Global Learning